Đơn vị thị trấn Thạch Giám: Tuyên truyên kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam - Ngày truyên thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (18/11/1930 -18/11/2024)
I. MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT VIỆT NAM RA ĐỜI - BƯỚC PHÁT TRIỂN CỦA PHONG TRÀO YÊU NƯỚC VÀ PHONG TRÀO CÁCH MẠNG CỦA NHÂN DÂN TA
Từ nửa cuối thế kỷ XIX, thực dân
Pháp xâm lược, thống trị nước ta, từng biến nước ta thành xã hội thuộc địa nửa
phong kiến. Chúng đã dùng nhiều thủ đoạn thống trị, áp bức, bóc lột hết sức tàn
bạo và tìm mọi cách để đàn áp, dập tắt phong trào yêu nước và phong trào cách
mạng của nhân dân ta. Lúc này, nước ta tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn
giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nông
dân với địa chủ phong kiến.
Dưới tác động chính sách thống trị của thực dân
Pháp và một số yếu tố khác làm cho xã hội Việt Nam biến đổi sâu sắc, các phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp nổ
ra liên tiếp từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX nhưng
lần lượt bị thất bại vì thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức vững mạnh, thiếu
lực lượng tiên phong[1].
Điều đó được lãnh tụ Hồ Chí Minh kết luận: “Từ ngày bị đế quốc xâm chiếm, nước
ta là một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót
sắt của kẻ thù hung ác. Trong mấy mươi năm khi chưa có Đảng, tình hình đen tối
như không có đường ra”.
Trong bối cảnh đó, lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc đã không
đi theo con đường cứu nước của các vị tiền bối vì nhận thấy ở đó còn những hạn
chế. Nguyễn Ái Quốc tìm hiểu một số cuộc cách mạng tư sản, nhất là
Đại cách mạng Pháp năm 1789 với bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền
và khẩu hiệu “Tự do, bình đẳng, bác ái” nổi tiếng; cách mạng Bắc Mỹ với Tuyên
ngôn độc lập năm 1776 tuyên bố về quyền con người thiêng liêng bất khả xâm
phạm, nhưng nhận thấy ở đó “vẫn còn áp bức bất công”, không thể đáp ứng yêu cầu
của dân tộc Việt Nam. Cuối cùng, Người tìm được và quyết định đưa dân tộc Việt
Nam đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 của Lênin - lãnh tụ của giai cấp vô sản thế giới - người
kế thừa và phát triển di sản vĩ đại của Mác - Ănghen.
Qua
thời gian chuẩn bị về tư tưởng, lý luận, tổ chức và cán bộ, Nguyễn Ái Quốc triệu tập và chủ trì Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam vào tháng 02/1930 tại Cửu Long, Hương Cảng, Trung Quốc; thông qua Chánh
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, vạch ra những vấn đề cơ bản về đường lối Cách mạng Việt Nam. Trong
đó, có những nội dung về yêu cầu tập hợp lực lượng, xây dựng khối đại đoàn kết
dân tộc. Đó là cơ sở quan trọng để sau đó Đảng
ta xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam.
Giữa lúc cao
trào cách mạng đầu tiên do Đảng lãnh đạo 1930 - 1931 mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ - Tĩnh đang diễn ra sôi
nổi và rầm rộ trong cả nước, ngày 18/11/1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương
ra Chỉ thị về vấn đề thành lập Hội phản đế
Đồng minh - hình thức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam.
Chỉ thị xác định Hội phản đế đồng minh phải bảo đảm tính công nông, đồng thời
phải mở rộng tới các thành phần trong dân tộc để Mặt trận thực sự là của toàn
dân và nhấn mạnh: “giai cấp vô sản lãnh đạo cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở
Đông Dương mà không tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật rộng,
thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó thành công”.
Hội Phản đế Đồng minh là hình
thức tổ chức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam, đánh dấu sự
trưởng thành về nhận thức và chỉ đạo thực tiễn cách mạng của Đảng ta. Đó cũng
là cống hiến vĩ đại về lý luận và thực tiễn của Nguyễn Ái Quốc là thành quả của
kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước,
chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đủ trưởng thành, đủ sức gánh vác sứ mệnh
lịch sử lãnh đạo cách mạng.
Từ đó tới nay, tuy
có những hình thức và tên gọi khách nhau cho phù hợp với nhiệm vụ của từng thời
kỳ cách mạng, nhưng Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam luôn là nơi tập hợp
các giai tầng xã hội vì mục tiêu lớn của dân tộc.
II. NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG LỊCH SỬ VẺ VANG VÀ ĐÓNG GÓP TO LỚN CỦA MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT VIỆT NAM
A. Thời kỳ đấu
tranh giành chính quyền cách mạng (1930 - 1945)
1. Hội Phản đế Đồng minh (11/1930 - 3/1935)
Ngày 18/11/1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị thành lập Hội Phản đế Đồng minh. Đây là hình thức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Từ khi thành
lập đến tháng 3/1935, Hội Phản đế Đồng minh đã có nhiều đóng góp quan trọng cho
cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
2. Hội Phản đế Liên minh (03/1935 - 10/1936)
Tháng 3/1935, Đại hội Đảng lần thứ nhất của Đảng thông qua Nghị
quyết về công tác Phản đế Liên minh. Nghị
quyết xác định các nhiệm vụ cần thiết trước mắt: lập tức tổ chức ra các Hội
Phản đế Liên minh, đảng viên phải vào Hội, mở rộng tổ chức Hội tới cấp toàn
Đông Dương, lôi kéo rộng rãi các tổ chức, cá nhân có tính chất phản đế phải liên kết cuộc
vận động Phản đế Liên minh vốn có những khẩu hiệu chung tuyên truyền lớn lao
với các cuộc đấu tranh đòi quyền lợi hằng ngày. Phải ra báo và tài liệu riêng cho Phản đế liên minh;
cần sửa đổi những sai sót về tôn chỉ, điều lệ, các hình thức tổ chức Phản đế
liên minh của các đảng bộ.
3. Mặt
trận Thống nhất Nhân dân Phản đế Đông Dương (10/1936
- 3/1938)
Những năm 1936 - 1939, tình hình thế giới diễn biến mau lẹ, phức tạp. Chủ
nghĩa phát xít xuất hiện, nguy cơ chiến tranh thế giới đang đến gần. Sau khi dự
Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ VII trở về, Đoàn đại biểu Đảng ta cùng với Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị (tháng 11/1936) xác định mục
tiêu chủ yếu và nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Việt Nam lúc này là đấu tranh
chống chế độ phản động thuộc địa, chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh,
đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Đảng quyết định tạm thời chưa nêu khẩu
hiệu “đánh đổ đế quốc Pháp và giai cấp địa chủ giành độc lập dân tộc và ruộng
đất cho dân cày” đồng thời chủ trương thành lập Mặt trận Thống nhất Nhân
dân Phản đế Đông Dương tập hợp các lực
lượng toàn Đông Dương vào cuộc đấu tranh chống đế quốc.
4. Mặt
trận Dân chủ Đông Dương (3/1938 - 11/1940)
Để phù hợp với
tình hình thực tế và yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, Hội nghị Ban chấp hành Trung
ương Đảng tháng 3/1938 quyết định đổi tên thành Mặt trận Thống nhất Dân chủ Đông Dương, gọi tắt là Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Nhờ có
chính sách Mặt trận đúng đắn, có phương pháp vận động khôn khéo, phương pháp
đấu tranh linh hoạt nên Mặt trận đã tập hợp, đoàn kết rộng rãi các giai tầng xã
hội như công nhân, nông dân, tiểu thương, tiểu chủ tư sản nhỏ, đồng thời còn
bắt tay với các đảng phái cải lương, kể cả những người Pháp tiến bộ ở Đông
Dương nhằm chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do, cơm áo, hòa
bình.
5. Mặt
trận Dân tộc Thống nhất Phản đế (11/1940 - 5/1941)
Ngày 01/9/1939, Chiến tranh thế giới lần thứ II bùng nổ, tháng 9/1940 phát
xít Nhật vào Đông Dương, thực dân Pháp thỏa hiệp với phát xít Nhật, thẳng tay đàn áp phong trào dân chủ chống chiến tranh của nhân dân
ta. Tháng 11/1940, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng chủ trương thành lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất Phản đế, nhằm tập hợp hết thảy những lực lượng phản đế, phản phong kiến ở Đông
Dương đánh đổ đế quốc Pháp – phát xít Nhật và bè lũ tay sai phản lại
quyền lợi dân tộc. Nhờ những chủ trương đúng đắn đó, các tổ chức phản đế nhanh
chóng được phát triển, Mặt trận được mở rộng trong các tầng lớp nhân dân.
6. Mặt
trận Việt Minh (thành lập từ tháng 5/1941)
Nhận thấy sự
chuyển biến của tình hình thế giới và trong nước có lợi cho cách mạng Việt Nam,
ngày 28/01/1941 Nguyễn Ái Quốc về nước (sau hơn 30 năm bôn ba hoạt động ở nước
ngoài). Tháng 5/1941, Người triệu tập Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám.
Hội nghị nhận định: “Cách mạng Việt
Nam là cách mạng dân tộc giải phóng, trước mắt tạm gác khẩu hiệu “cách mạng thổ
địa” để lôi kéo địa chủ tiến bộ, mở rộng Mặt trận Dân tộc Thống nhất chống
Pháp, Nhật nhằm giải quyết nhiệm vụ sống còn của dân tộc lúc này là giải phóng
dân tộc”. Để hoàn
thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc theo đề nghị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội
nghị quyết định thành lập Mặt trận
Việt Nam Độc lập Đồng minh, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh bao gồm các hội cứu quốc của các tầng lớp nhân dân.
Tháng 10/1941, Việt Minh công bố Tuyên ngôn,
Chương trình và Điều lệ. Đây là lần đầu tiên một Mặt trận Dân tộc Thống nhất
trình bày công khai đường lối, chính sách, phương pháp tiến hành và tổ chức lực
lượng đấu tranh để thực hiện mục đích cứu nước của mình. Ngày 07/5/1944, Tổng
bộ Việt Minh ra Chỉ thị về sửa soạn khởi nghĩa. Tháng 10/1944, Bác Hồ có thư kêu gọi đồng bào ra sức chuẩn bị để họp toàn
quốc Đại hội, đại biểu cho tất cả các đảng phái cách mệnh và các đoàn thể trong
nước để bầu cử ra “Một cơ cấu đủ lực lượng và uy tín, trong thì lãnh
đạo công việc cứu quốc, kiến quốc, ngoài thì giao thiệp với các hữu bang”.
Ngày 22/12/1944, Bác Hồ ra chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải
phóng quân. Ngày 09/3/1945, Nhật lật đổ Pháp, độc chiếm Đông Dương. Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và
hành động của chúng ta”. Thực hiện Chỉ thị đó, một cao trào cách mạng đã
xuất hiện ở nhiều nơi; khu giải phóng Việt Bắc gồm 06 tỉnh được thành lập. Tình hình chuyển biến mau lẹ, phát
xít Đức đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng minh. Bác Hồ kêu gọi đồng bào dũng cảm tiến lên dưới ngọn cờ của Việt
Minh hãy “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Đại hội Quốc dân do Tổng bộ Việt
Minh triệu tập họp ở Tân Trào trong 02 ngày 16 và 17/8/1945
đã nhiệt liệt tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa do Đảng Cộng sản kiến
nghị, thông qua Lệnh khởi nghĩa và 10 chính sách lớn của Việt Minh, quyết định
Quốc kỳ, Quốc ca. “Đại hội đã cử ra Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam, sau
này trở thành Chính phủ lâm thời của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” do lãnh
tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Chỉ trong vòng 02 tuần lễ chính quyền địch hoàn toàn sụp đổ, Ủy ban nhân
dân lâm thời được thành lập khắp các địa phương trong cả nước. Ngày 02/9/1945
tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa (nay là Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).
B. Thời kỳ bảo
vệ và phát triển thành quả Cách mạng tháng Tám, tiến hành kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1946 - 1975)
1. Mặt trận
Việt Minh tăng cường đoàn kết toàn dân góp phần bảo vệ và giữ vững chính quyền
cách mạng
Sau khi Cách
mạng tháng Tám thành công, chính quyền cách mạng đứng trước tình thế “ngàn cân
treo sợi tóc”: thù trong giặc
ngoài, nạn đói, nạn dốt, khó khăn về tài chính. Để bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, làm thất bại
mọi âm mưu của kẻ thù và tay sai, nhiệm vụ củng cố và phát triển Việt Minh được
đề ra cụ thể; việc phát triển các tổ chức cứu quốc thống nhất trong cả nước trở
thành vấn đề cần kíp. Trước sự hoạt động ráo riết của các loại kẻ thù, Đảng ta
chuyển vào hoạt động bí mật; từ đó vai trò của Việt Minh trong đời sống chính
trị của đất nước ngày càng được đề cao, ngày càng thu nhận thêm những thành
viên mới, góp phần ngăn chặn và phân hóa hàng ngũ các đảng phái chính trị phản
động bám gót quân Tưởng, đồng thời tuyên truyền, vận động Nhân dân tham gia các
phong trào sản xuất cứu đói, tuần lễ vàng, hũ gạo tiết kiệm… Nhờ những hoạt
động có hiệu quả của Việt Minh, khối đại đoàn kết toàn dân thực sự trở thành
hậu thuẫn vững chắc chống thù trong giặc ngoài, đưa con thuyền cách mạng Việt
Nam vượt qua thác ghềnh nguy hiểm, bảo vệ được chính quyền, chủ động chuẩn bị
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Đánh giá công
lao to lớn của Việt Minh, Tuyên ngôn của Đại hội toàn quốc Thống nhất Việt Minh
- Liên Việt tháng 3/1951 nêu rõ: “Việt Minh có
công lớn trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, chống quân cướp nước.
Công đức ấy tất cả mọi người Việt Nam phải ghi nhớ. Lịch sử của Việt Minh 10
năm đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc cũng là những trang lịch sử vẻ
vang vào bậc nhất của dân tộc Việt Nam ta”.
2. Mặt trận Thống nhất Việt Minh - Liên Việt (gọi tắt là Mặt trận Liên
Việt) đóng góp to lớn đưa cuộc kháng chiến
chống Pháp đến thắng lợi hoàn toàn
Để đáp ứng yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng và sự phát triển của Mặt
trận Dân tộc Thống nhất, Bác Hồ và Trung
ương Đảng chủ trương vận động thành lập Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (Hội
Liên Việt). Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 29/5/1946 Hội Liên hiệp Quốc dân
Việt Nam tuyên bố thành lập. Cương lĩnh của Hội chỉ rõ: “Mục đích đoàn kết
tất cả các đảng phái yêu nước và đồng bào yêu nước vô đảng phái, không phân
biệt giai cấp, tôn giáo, xu hướng chính trị, chủng tộc để làm cho nước Việt Nam
độc lập - thống
nhất - dân chủ
- phú cường”. Việc thành lập Hội Liên Việt là bước phát triển mới của
Mặt trận Dân tộc Thống nhất.
Thực hiện Lời
kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Mặt trận Việt Minh và
Hội Liên Việt đã ra sức tuyên truyền, vận động Nhân dân tham gia kháng chiến.
Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt ngày càng sát cánh bên nhau, đẩy mạnh mọi
hoạt động, xây dựng tổ chức, phát triển lực lượng nhằm mục tiêu chung là kháng
chiến thắng lợi, giành độc lập dân tộc. Việc thống nhất Mặt trận Việt Minh và Hội
Liên Việt trở thành yêu cầu khách quan của kháng chiến và sự nghiệp cách mạng
của Nhân dân ta nhằm củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân.
Ngày 03/3/1951,
Đại hội toàn quốc Mặt trận Thống nhất Việt Minh – Liên Việt lấy tên là Mặt trận Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (gọi
tắt là Mặt trận Liên Việt)
được tiến hành. Đại hội lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Đương (5/1951), tuyên
bố ra công khai với tên gọi là Đảng Lao động Việt Nam có sứ mệnh lãnh đạo cách
mạng Việt Nam và lãnh đạo Mặt trận Dân tộc Thống nhất. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Mặt trận Liên Việt đã thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ. Tăng cường đại đoàn kết toàn dân, vận động các giới đồng bào chấp
hành tốt các chính sách của Đảng và Nhà nước, đập tan mọi hoạt động tàn bạo và
âm mưu thâm độc của kẻ thù, vận động Nhân dân thực hiện giảm tô, giảm tức và
cải cách ruộng đất nhằm động viên khí thế cách mạng của nông dân, tăng cường liên
minh công nông, góp phần củng cố Mặt trận Dân tộc Thống nhất.
Quá trình kháng chiến toàn dân, toàn diện làm cho Mặt trận Dân tộc Thống
nhất không ngừng lớn mạnh, tăng cường khối
đại đoàn kết toàn dân tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thần, đưa cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược đến thắng lợi, giải phóng hoàn toàn miền
Bắc, làm cơ sở cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất đất
nước. Qua 09 năm kháng
chiến, Mặt trận Liên Việt trở thành “… Một trong những trụ cột của Nhà
nước dân chủ nhân dân, là sức mạnh vô biên của cuộc kháng chiến, kiến quốc; là
cơ sở quần chúng rộng rãi làm thành một áo giáp vững bền của Đảng để đánh thắng
bọn xâm lược và tay sai của chúng”.
3. Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam cùng với Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng
Ngày 10/9/1955,
Đại hội Mặt trận Dân tộc Thống nhất họp tại Hà Nội đã quyết định thành
lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
thông qua Cương lĩnh nhằm đoàn kết mọi lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình
trong cả nước để đấu tranh chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam đã ra sức vận động các tầng lớp nhân dân tham gia khôi phục kinh tế và phát triển văn hóa,
hàn gắn vết thương chiến tranh, cải tạo và xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa
thực sự là cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Để Mặt trận
không ngừng phát huy vai trò, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên quan
tâm theo dõi và chỉ đạo công tác Mặt trận. Tại lớp huấn luyện cán bộ Mặt trận (tháng
8/1962), Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ:“Chính sách Mặt trận là một chính sách rất
quan trọng. Công tác Mặt trận là công tác rất quan trọng trong toàn bộ công tác
cách mạng”. Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ III năm 1960 của Đảng nêu
rõ: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã đoàn kết các giai cấp, các đảng phái,
các dân tộc, các tôn giáo, các nhân sĩ yêu nước và tán thành chủ nghĩa xã hội,
nhờ đó đã động viên mọi lực lượng yêu nước và tiến bộ của dân tộc để xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà”.
Từ cao trào đấu tranh của Nhân dân miền Nam chống đế quốc
Mỹ xâm lược và chính quyền tay sai Ngô Đình
Diệm, ngày 20/12/1960, Mặt trận
Dân tộc giải phóng miền
Nam Việt Nam ra đời với bản Tuyên ngôn và Chương trình hành
động 10 điểm, nội dung cơ bản là đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân với mục tiêu đấu tranh “Phải hòa bình! Phải độc
lập! Phải dân chủ! Phải cơm no, áo ấm! Phải hòa bình, thống nhất Tổ quốc!” nhằm
đánh đổ chế độ độc tài tay sai của đế quốc Mỹ. Trong quá trình hoạt động, Mặt
trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã kịp thời đề ra nhiều chủ trương,
chính sách nhằm không ngừng mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân. Đại hội lần thứ
I (tháng
3/1962) quyết định nhiều chính sách lớn
về đối nội, đối ngoại như vấn đề hòa bình, trung lập, dân tộc, ruộng đất, trí
thức, tư sản, tôn giáo, ngoại kiều và chính sách đối với binh lính và ngụy
quyền miền Nam… tạo điều kiện đoàn kết rộng rãi nhất, sẵn sàng bắt tay với
những ai tán thành chống Mỹ, cứu nước và thống nhất đất nước.
Ngày 20/4/1968,
trong khí thế của Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1968, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và
hòa bình Việt Nam ra đời với bản Cương lĩnh thích hợp nhằm
đoàn kết, tranh thủ thêm tầng lớp trí thức, tư sản dân tộc tiến bộ ở thành thị nhưng chưa tham gia Mặt trận Dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam. Ngày 06/6/1969, Đại hội đại biểu quốc
dân miền Nam Việt Nam đã bầu ra Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam
Việt Nam và Hội đồng Cố vấn.
Từ khi ra đời,
Mặt trận đã làm một phần chức năng của chính quyền dân chủ nhân dân. Sau khi có
Chính phủ Cách mạng lâm thời, Mặt trận giữ vai trò trụ cột và làm hậu thuẫn cho
chính quyền cách mạng, không ngừng đẩy mạnh hoạt động trên cả ba mặt quân sự,
chính trị và ngoại giao, tiến tới cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân 1975
giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
C. Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
- Từ ngày 31/01/1977 đến 04/02/1977 tại Thành phố Hồ Chí Minh, Đại hội Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam quyết định hợp nhất 3
tổ chức: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam, lấy
tên chung là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đại hội đã thông qua chương trình chính
trị và điều lệ mới nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần
trong Nhân dân, phát huy nhiệt tình cách mạng và tinh thần làm chủ, động viên Nhân
dân hăng hái tham gia xây dựng và củng cố chính quyền, xây dựng Hiến pháp chung
của cả nước; tổ chức bầu cử Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp, góp phần giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, hàn gắn vết thương chiến tranh,
khắc phục thiên tai, phát triển kinh tế…
Ngày 18/4/1983,
Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá V) ra Chỉ thị số 17 về “Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong
giai đoạn mới” chỉ rõ: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một tổ chức chính
trị - xã hội rộng
lớn nhất, vừa có tính chất liên hiệp rộng rãi, vừa có tính quần chúng sâu sắc.
Mặt trận đại diện cho quyền làm chủ của Nhân dân lao động, là sợi dây nối liền
các tầng lớp xã hội rộng rãi với Đảng, là chỗ dựa vững chắc của Nhà nước”.
- Đại hội Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ II (từ ngày 12/5/1983 đến ngày 14/5/1983) thông qua Chương trình hành động và ra Lời kêu gọi đồng bào chiến sĩ cả nước đoàn kết phấn đấu khắc phục khó khăn, vượt qua thử thách,
góp sức cùng với Đảng và Nhà nước tìm ra những giải pháp có hiệu quả để
đưa đất nước tiến lên.
- Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ III (họp từ ngày 02/11/1988 đến ngày 04/11/1988) là Đại hội thực hiện công cuộc đổi mới do Đại hội VI (tháng 12/1986) của Đảng đề ra, là “sự biểu dương lực lượng to lớn
của toàn dân, đoàn kết một lòng tiến hành công cuộc đổi mới”.
Phương hướng tăng cường và đổi mới công tác Mặt trận được Đại hội nêu ra
là:
+ Mở
rộng khối đại đoàn kết toàn dân; mở rộng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về hoạt động
và tổ chức nhằm tập hợp mọi lực lượng, mọi khả năng, phấn đấu vì sự phồn vinh
của đất nước, vì hạnh phúc của Nhân dân.
+ Hướng
hoạt động của Ủy ban Mặt trận các cấp đi vào thực hiện một cách thiết thực các
nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của đất nước, địa phương và đời sống của Nhân
dân, tập trung vào việc vận động Nhân dân tham gia xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
xây dựng chính quyền Nhân dân và thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội.
+ Phát huy tinh
thần chủ động sáng tạo, tự lực vươn lên; ra sức khai thác mọi tiềm năng và các
điều kiện thuận lợi, khắc phục khó khăn, tự đổi mới và góp phần tích cực vào
công cuộc đổi mới chung của đất nước.
Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò rất quan
trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” và
xác định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị của các
đoàn thể nhân dân và của cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã
hội, các dân tộc, các tôn giáo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên, vừa là người lãnh đạo Mặt trận”.
Sau Đại hội
toàn quốc lần thứ VII của Đảng, Nhà nước đã đẩy mạnh việc thể chế hóa vai trò,
vị trí trách nhiệm của Mặt trận trên một số lĩnh vực hoạt động. Ngày
17/11/1993, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết
07-NQ/TW về “Đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất”,
đề ra 04 chủ trương
lớn, đồng thời là 04 quan điểm cơ
bản chỉ đạo quá trình tăng cường và mở rộng
khối đại đoàn kết dân tộc và tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Đại hội lần thứ
IV Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (họp từ ngày 17/8/1994 đến ngày 19/8/1994) đã đề ra phương hướng tiếp tục đổi mới tổ chức
và phương thức hoạt động của Mặt trận nhằm làm tốt hơn nữa chức năng đoàn kết
dân tộc, tập hợp mọi lực lượng tán thành sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu độc lập
dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, phấn đấu sớm thoát khỏi nghèo
nàn, lạc hậu, tiến lên dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Thực hiện
các nghị quyết Đại hội VIII, Đại hội IX của Đảng và chương trình Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam “Đại đoàn kết dân tộc xây dựng và bảo vệ đất nước”. Kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá X năm 1999 đã thông qua Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tạo cơ sở pháp
lý quan trọng để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoạt động có hiệu quả, mở
rộng về tổ chức và hoạt động, củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân,
phát huy vị trí, vai trò của Mặt trận trong đời sống chính trị - xã hội. Hội nghị lần thứ hai Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (khóa IV) đã quyết định mở Cuộc vận động “Toàn dân đoàn
kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư”. Ngày 03/5/1995, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam ra
Thông tri 04 hướng dẫn thực hiện Cuộc vận động (nay là Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới,
đô thị văn minh”).
- Đại hội đại
biểu Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ V (họp từ ngày 26 đến 28/8/1999) đánh
dấu cột mốc quan trọng trong việc thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc và
tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất trong thời kỳ phát triển mới của đất
nước, là Đại hội phát huy tinh thần yêu nước, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc, tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tháng 10/2000, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam phát động Cuộc vận động “Ngày vì người nghèo” trong phạm vi toàn quốc, thể hiện chủ trương phù hợp với lòng dân, ý Đảng, mang ý nghĩa chính
trị, xã hội và nhân văn sâu sắc.
- Đại hội
đại biểu MTTQ Việt Nam lần thứ VI (họp từ ngày 21/9/2004 đến 23/9/2004) là Đại
hội “Phát huy sức mạnh Đại đoàn kết toàn dân tộc, nâng cao vai trò Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”.
Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân có vai trò
rất quan trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp
nhân dân; đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của
nhân dân; đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các chương trình
kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh thành hoạt động thực tiễn sinh
động trong cuộc sống của nhân dân. Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện
xã hội”.
- Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ VII được
tổ chức trong các ngày 28, 29 và 30/9/2009 tại Thủ đô Hà Nội. Chủ đề của Đại
hội là "Nâng cao vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, phát huy dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội, xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Đại hội đã đề ra mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và chương trình hành
động nhiệm kỳ 2009 - 2014 và chính thức phát động phong trào thi đua yêu nước
trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân lập thành tích chào mừng kỷ niệm 1.000 năm
Thăng Long - Hà Nội, 80 năm Ngày thành lập Mặt
trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam và các ngày lễ lớn của đất nước và ra
lời kêu gọi các tầng lớp nhân dân ở trong nước và ở nước ngoài đoàn kết, đồng
tâm hiệp lực cùng toàn Đảng, toàn quân và toàn dân phát huy cao độ lòng yêu nước,
ý chí tự lực tự cường, đồng lòng chung sức thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục
tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Trong nhiệm kỳ Đại hội, ngày 12/12/2013, Bộ Chính trị đã ban hành Quyết
định số 217- QĐ/TW về việc ban hành “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội” và Quyết định số 218
- QĐ/TW về việc ban hành “Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn
thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính
quyền”. Sau khi Quyết định số 217-QĐ/TW, Quyết định
số 218 - QĐ/TW của Bộ Chính trị được ban hành, Đoàn Chủ tịch, Ban Thường trực Ủy ban Trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã ban hành, phối hợp và đề xuất với các cơ quan
chức năng ban hành nhiều văn bản quán triệt, triển khai thực hiện giám sát,
phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong hệ thống Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, như: Thông tri số 28/TTr-MTTW-BTT, ngày 17/4/2014 hướng
dẫn thực hiện một số điều Quyết định số 217, Quyết định số 218; Kế hoạch số
471/KH-MTTW-BTT, ngày 17/4/2014 về triển khai thực hiện Quyết định số 217, Quyết định số 218 trong hệ
thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đến nay, các hoạt động giám sát, phản biện xã hội và tham gia góp ý xây dựng Đảng,
chính quyền của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từng bước đi vào nề nếp. Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam các cấp đã tích cực bám sát chương trình, kế hoạch của
cấp ủy, chính quyền các cấp và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng
Đảng, chính quyền của địa phương, những vấn đề xã hội và nhân dân quan tâm, bức
xúc để giám sát, phản biện xã hội hằng năm. Góp ý thường xuyên, định kỳ, đột
xuất được quan tâm hơn; gắn giám sát, phản biện xã hội với nhiệm vụ lắng nghe ý
kiến nhân dân, vận động nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật, các phong
trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động.
- Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
lần thứ VIII (họp từ ngày 25/9/2014 đến ngày 27/9/2014) được tổ chức tại Thủ đô Hà Nội. Với chủ đề “Đoàn kết - Dân chủ -
Đổi mới - Phát triển”, Đại hội có nhiệm vụ đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội và Chương trình hành
động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ VII (2009 - 2014); rút ra
những bài học kinh nghiệm, nhận định, đánh giá cụ thể, toàn diện về tình hình
khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đề ra mục tiêu, phương hướng nhiệm vụ và Chương
trình hành động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhiệm kỳ VIII (2014 - 2019). Với tinh
thần “Đoàn kết - Dân chủ - Đổi mới”, Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam lần thứ VIII thiết tha kêu gọi toàn thể đồng bào Việt Nam ta ở trong
nước và nước ngoài tích cực hưởng ứng thực hiện 05 chương trình hành động của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, cùng Đảng
và Nhà nước tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quyết tâm thực hiện thắng lợi
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nước Việt Nam hòa
bình, thống nhất, độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh và hạnh phúc.
- Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
lần thứ IX, nhiệm kỳ 2019 - 2024 họp từ ngày 18/9/2019 đến ngày 20/9/2019 tại
Thủ đô Hà Nội với chủ đề: “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, vì dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Chương trình hành động Đại hội đại biểu
toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ IX, nhiệm kỳ 2019 - 2024 là: Tiếp tục
đổi mới mạnh mẽ nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam; tăng cường củng cố liên minh chính trị, xây dựng và củng cố vững chắc khối
đại đoàn kết toàn dân tộc; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng của Nhân dân; thực hiện dân chủ, giám sát và phản biện xã hội, đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm, tham gia xây dựng Đảng,
chính quyền trong sạch, vững mạnh; tăng cường đồng thuận xã hội, thúc đẩy tinh
thần thi đua sáng tạo, phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, giữ vững hòa bình, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
- Đại hội đại biểu toàn quốc
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ X, nhiệm kỳ 2024 - 2029 họp từ ngày
16/10/2024 đến ngày 18/10/2024 tại Thủ đô Hà Nội với chủ đề: “Đoàn kết -
Dân chủ - Đổi mới - Sáng tạo - Phát triển”. Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ X, nhiệm kỳ 2024 – 2029 đã thông qua 06 Chương
trình hành động:
- Chương trình 1: Đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, vận động, tập hợp các tầng lớp nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội,
phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Chương trình 2: Nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác giám sát và phản biện xã hội, thực hiện dân chủ, tham gia xây
dựng Đảng, Nhà nước.
- Chương trình 3: Động viên các tầng lớp
nhân dân thi đua, sáng tạo, thực hiện hiệu quả các cuộc vận động, phong trào
thi đua.
- Chương trình 4: Phát huy vai trò làm
chủ, tinh thần tự quản của nhân dân, xây dựng khu dân cư đoàn kết, ấm no, hạnh
phúc.
- Chương trình 5: Nâng cao hiệu quả hoạt
động đối ngoại nhân dân và công tác người Việt Nam ở nước ngoài.
- Chương trình 6: Tiếp tục đổi mới tổ chức
bộ máy, nội dung phương thức hoạt động; nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ Mặt
trận các cấp.
Như vậy, gần một
thế kỷ đã qua, với nhiều hình thức tổ chức khác
nhau, Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam nay là Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam luôn trung thành với lợi ích của nhân dân, tiêu biểu cho
truyền thống đoàn kết dân tộc là biểu trưng cho lòng tự hào, tự tôn dân tộc, là
trí tuệ, sức mạnh không gì lay chuyển nổi của các
thế hệ người Việt Nam yêu nước trong cuộc đấu tranh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
III. MỘT SỐ
NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
- Tập trung triển khai Chương trình hành động thực
hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ
X, nhiệm kỳ 2024 – 2029.
- Tuyên truyền, vận động, tập hợp các tầng lớp nhân dân;
củng cố, tăng cường, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục mở rộng và đa dạng hóa các hình
thức vận động, tập hợp, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân. Tập hợp ý kiến,
kiến nghị của Nhân dân để kịp thời phản ánh đến các cơ quan Đảng, Nhà nước;
theo dõi, giám sát và đôn đốc việc xử lý, giải quyết.
- Vận động Nhân dân thi đua học tập, lao động sáng tạo, thực hiện thắng lợi
các mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh
của đất nước. Vận động Nhân dân phát huy tinh thần tự lực, tự cường, tự tôn dân
tộc, thi đua học tập, lao động sáng tạo, phát triển sản xuất, kinh doanh, phát
huy tài năng, sáng kiến, giúp nhau giảm nghèo bền vững, vươn lên làm giàu chính
đáng, cùng Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành vượt qua khó khăn, thách thức, tạo
đà tăng trưởng vững chắc của nền kinh tế quốc gia, cải thiện nâng cao chất lượng
toàn diện đời sống Nhân dân. Vận động Nhân dân tăng cường tự quản, đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, chăm lo sự nghiệp giáo dục, phát triển nguồn
nhân lực, chăm sóc sức khỏe Nhân dân; xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc; tham
gia bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, xây dựng cảnh quan môi trường
sáng, xanh, sạch, đẹp; gương mẫu chấp hành pháp luật, bảo đảm an toàn giao
thông, an toàn thực phẩm, đẩy lùi tiêu cực, tội phạm và tệ nạn xã hội. Phát huy
truyền thống tương thân tương ái; thực hiện công tác đền ơn, đáp nghĩa, bảo đảm
an sinh xã hội; triển khai các hoạt động cứu trợ, nhân đạo từ thiện, vận động
giúp đỡ người có hoàn cảnh khó khăn, bị thiệt hại do thiên tai, hoạn nạn.
- Thực hiện dân chủ, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của Nhân dân; giám sát và phản biện xã hội, tham gia phòng, chống
tham nhũng, lãng phí, góp phần xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch vững mạnh.
Phát huy vai trò của Mặt trận và sức mạnh của Nhân dân trong tham gia đấu tranh
phòng, chống tham nhũng. Tăng cường giám sát việc thực hiện các chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tham gia xây dựng, phản biện
dự thảo các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân,
quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Tăng cường đoàn
kết quốc tế, mở rộng hoạt động đối ngoại Nhân dân. Đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại nhân dân theo phương châm “chủ động,
sáng tạo, hiệu quả”, tăng cường tình đoàn kết, hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam
với nhân dân các nước trên thế giới, góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại của Đảng,
tăng cường ngoại giao của Nhà nước, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc
tế. Tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện chủ trương đối ngoại của Đảng,
chính sách ngoại giao của Nhà nước. Vận động, tạo sự ủng hộ của bạn bè quốc tế,
góp phần bảo vệ chủ quyền quốc gia, giữ vững hòa bình, độc lập và toàn vẹn
lãnh thổ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.
- Tăng cường củng cố tổ chức, đổi mới nội
dung, phương thức, nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Kiện toàn Ủy ban Mặt trận các cấp
với thành phần, cơ cấu hợp lý để Mặt trận thực sự là tổ chức liên minh chính trị,
liên hiệp tự nguyện, đại diện tiêu biểu cho ý chí và nguyện vọng của Nhân dân.
Củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ cơ quan chuyên trách Ủy ban Mặt trận
các cấp phù hợp với chức năng, nhiệm vụ mới theo hướng tinh gọn, hoạt động có
hiệu quả. Xây dựng đội ngũ cán bộ của Mặt trận chuyên nghiệp, tâm huyết và sáng
tạo, đáp ứng yêu cầu của công tác vận động quần chúng. Tăng cường đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao nghiệp vụ năng lực đội ngũ cho cán bộ chuyên trách; phát huy mạnh
mẽ vai trò của đội ngũ chuyên gia, cộng tác viên. Nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động của Hội đồng tư vấn, Ban tư vấn, Ban Công tác Mặt trận ở địa bàn dân
cư. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận trên cơ sở đổi mới
toàn diện các mặt công tác, các lĩnh vực hoạt động của Mặt trận, từ việc xây dựng
và ban hành chủ trương, tổ chức triển khai thực hiện, tăng cường cơ chế phối hợp
trong và ngoài hệ thống.
- Tập trung triển khai các nhiệm vụ khoa
học; tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cho cán bộ Mặt trận các cấp. Triển
khai hoàn thành Đề tài Khoa học Công nghệ cấp quốc gia: Phát huy vai trò nòng cốt
của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội để Nhân
dân làm chủ trong thời kỳ phát triển mới của đất nước.
- Rà soát, hoàn thiện cơ chế, điều kiện
bảo đảm cho hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; thúc đẩy ứng dụng công nghệ
thông tin, chuyển đổi số trong hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp./.